Công nghiệp hóa
Sự thất bại của Anh vào năm 1813 đã dẫn đến việc Pháp ngay lập tức trở thành một cường quốc công nghiệp, ít nhiều gây thiệt hại cho Anh. Chiến tranh đã tiêu hao nền kinh tế Anh cả về nhân lực lẫn vật chất và những hạn chế của hòa bình khiến cho lục địa này có vẻ như là một cường quốc mới đang lên. Nhiều doanh nhân người Anh đã gạt niềm tự hào dân tộc sang một bên và đến Pháp và các quốc gia bù nhìn của nước này để kiếm được khoản lợi nhuận khổng lồ tiềm tàng trong thời kỳ bùng nổ ngay sau chiến tranh sau chiến thắng của Pháp. Hệ thống Lục địa, vốn đã hoạt động ở một mức độ nào đó trong các cuộc chiến tranh, tiếp tục đóng một vai trò lớn trong nền kinh tế của lục địa.
Quá trình công nghiệp hóa của Pháp chắc chắn đã được chính phủ của Napoléon I đẩy nhanh chóng. Thứ nhất, ông rất ấn tượng với các phương pháp mà người Anh đã sử dụng và đã tuyên bố một cách tiên tri rằng "thế giới sẽ sớm đi theo những bước chân này". Ông đã cung cấp nguồn vốn khổng lồ cho các công trình công cộng, bao gồm một loạt đường sá và kênh đào nối liền các ngành công nghiệp mới chớm nở của Pháp. Các quỹ này cũng góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi ở Pháp vì nó cung cấp cho các doanh nhân Lục địa nguồn vốn để theo đuổi hoạt động kinh doanh của họ cũng như hỗ trợ bất kỳ nhu cầu tài chính đầy hứa hẹn nào của các doanh nghiệp. Sự thất bại của Anh đã đặt nước này lên vị trí thứ hai trong thương mại châu Âu khi Napoléon ban hành thuế cao để ngăn chặn làn sóng hàng hóa giá rẻ của Anh, mặc dù thua trận nhưng vẫn tiếp tục được sản xuất. Thay vào đó, người Anh buộc phải buôn bán ở nước ngoài và thực hiện điều đó một cách xuất sắc ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Brazil. Tuy nhiên, nhờ điều này, ngành công nghiệp len của Pháp và Bỉ cũng như ngành dệt may của Silesia và dọc theo sông Rhine đã được củng cố rất nhiều và những thay đổi nhanh chóng bắt đầu diễn ra trong các ngành này khi quá trình hiện đại hóa trở nên nổi bật hơn. Nhiều ngành công nghiệp lục địa tập trung vào công nghiệp nặng mặc dù dệt may vẫn là một tài sản khá quan trọng đối với những người Flanders có truyền thống tập trung vào dệt may.
Việc đưa động cơ hơi nước vào Pháp sau thất bại của Anh đã làm thay đổi đáng kể phương tiện sản xuất. Đột nhiên, một cỗ máy không bao giờ biết mệt mỏi có thể thực hiện được nhiều công việc và đến năm 1830, nhiều ngành công nghiệp ở lục địa phụ thuộc vào năng lượng hơi nước. Người Anh và người Pháp đã sớm nghiên cứu động cơ hơi nước và cuối cùng là đường sắt. Đến năm 1840, khoảng 2.000 dặm đường chạy khắp nước Anh và khoảng 1.800 dặm ở Pháp, mặc dù Pháp đã được mở rộng đáng kể. Phần lớn trong số này được đặt tại Bỉ, với nguồn nước khan hiếm và lượng than lớn, đã có thể khai thác động cơ hơi nước ở mức độ lớn. Khu vực này của Đế quốc Pháp nhanh chóng trở thành trung tâm hàng đầu về xây dựng và kỹ thuật đường sắt.
Việc đưa thép vào thị trường vào giữa thế kỷ 19 chỉ giúp các ngành công nghiệp trên khắp châu Âu phát triển hơn nữa. Nước Anh vẫn còn mắc kẹt rất nhiều vào đầu thế kỷ 19 và việc thích ứng với hệ thống thép mới là rất khó khăn. Quả thực điều tương tự cũng có thể nói về Pháp nhưng quy mô của Đế quốc cho phép diễn ra nhiều thay đổi hơn. Tuy nhiên, thật đáng buồn là nước Anh đã không phải là nước dẫn đầu về công nghiệp hóa vào năm 1850 khi lục địa kết hợp đã sớm vượt qua nước Anh về mặt công nghiệp.
Sự tăng trưởng nhanh chóng của các ngành công nghiệp đặc trưng cho thời kỳ hậu chiến thậm chí còn có những hậu quả lớn hơn đối với bối cảnh xã hội so với bối cảnh kinh tế. Trước đây, đại đa số dân số Châu Âu là người làm nông nghiệp, như mọi thời đại. Sự xuất hiện đột ngột của các nhà máy trên khắp đất liền đột nhiên mở đường cho những cơ hội việc làm mới cho những người nông dân nhỏ khó khăn cũng như nhiều tầng lớp người nghèo thành thị. Chẳng bao lâu tầng lớp lao động công nghiệp mới này đã tập trung đông đúc vào các thành phố có nhiều nhà máy. Tuy nhiên, ở Châu Âu thời Napoléon, cơ cấu chính phủ và nguồn gốc của hệ thống đã nhanh chóng ghi nhận các vấn đề liên quan đến điều kiện sống của một số thành phố công nghiệp đông đúc tương đối đông đúc và vào những năm 1840, sau chiến dịch Ai Cập, Napoléon II đã thông qua một chính sách một loạt các cải cách đô thị và việc làm sâu rộng nhằm thiết lập giờ làm việc đều đặn, luật lao động trẻ em và hệ thống phúc lợi cơ bản. Đây là những bước đi chưa từng có trước đây và lần đầu tiên trong thế giới công nghiệp, Pháp đã dẫn đầu và không lâu sau Quốc hội Anh đã thông qua luật lao động của riêng họ. Trước đây họ quá bận tâm đến việc duy trì vị thế cường quốc công nghiệp vượt trội của mình đến mức bỏ qua những lời kêu gọi cải cách đô thị và lao động. Giờ đây, chứng kiến sự thành công của các chương trình của Pháp, nước Anh đã thông qua luật riêng của mình. Một giai cấp công nhân cay đắng đã bị tránh xa và chế độ nhân tài đặc trưng của Châu Âu thời Napoléon đã giữ cho các giai cấp xã hội luôn vận động. Do đó, đấu tranh giai cấp đã bị cản trở ở Tây Âu lục địa.
Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng sau chiến tranh cuối cùng đã dẫn đến nhu cầu của Pháp về tiếp cận nguyên liệu thô và do đó là các thuộc địa. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Pháp đã chứng kiến ngành công nghiệp Anh thành công như thế nào một phần nhờ vào thị trường rộng lớn mà nước này chiếm lĩnh. Mặc dù liên minh với Tây Ban Nha, một cường quốc thuộc địa hàng đầu, nhưng các phương pháp cổ xưa mà người Tây Ban Nha sử dụng không phù hợp với nhiều nhà kiếm tiền ở lục địa. Rõ ràng là Pháp sẽ cần một số thuộc địa của riêng mình.
__________________
Chủ nghĩa đế quốc
Sự trỗi dậy và sụp đổ của nhiều đế chế khác nhau trong suốt thế kỷ 19 có thể được nhìn thấy rõ ràng nhất ở chủ nghĩa đế quốc hải ngoại đã tồn tại ở các nước châu Âu sau các cuộc chiến tranh vào đầu thế kỷ này. Cuộc cách mạng công nghiệp trên lục địa đã tạo ra nhu cầu sở hữu tài sản ở nước ngoài, trong khi người Anh tiếp tục tranh giành quyền lực tối cao.
Năm 1813, người Anh vẫn là cường quốc thuộc địa hàng đầu thế giới mặc dù đã mất hết ảnh hưởng trên lục địa và mất đi các thuộc địa quý giá của Mỹ ba mươi năm trước. Ngay cả việc mất nhiều hòn đảo ở Caribe vào tay Pháp cũng không ngăn cản được việc Anh trở thành một cường quốc thực dân. Những hạn chế đặt ra cho Anh trong Hiệp ước Paris đã không ngăn cản họ mở rộng sang Ấn Độ. Mặc dù quân số chính thức của Quân đội quốc tế Anh được giới hạn ở mức 65.000, nhưng quy định này được thực thi rất ít. Trên thực tế, có lẽ chỉ riêng ở Quần đảo Anh đã có hơn 65.000 người. Tuy nhiên, người Anh đã nhanh chóng sử dụng các lực lượng phi chính phủ, chẳng hạn như lực lượng của Công ty Đông Ấn Anh để giúp chinh phục Ấn Độ và đến giữa những năm 1840, Ấn Độ nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của Anh. Công ty được đề cập đã phát triển mạnh mẽ sau thời kỳ suy thoái sau chiến tranh. Nhiều công ty khác được thành lập bao gồm Công ty Đông Ấn Anh và Công ty Đông Nam Á Anh. Nước đầu tiên trong số này đã nắm quyền kiểm soát hiệu quả đối với Đông Ấn thuộc Hà Lan trước đây đã bị người Anh chiếm giữ sau khi Napoléon sáp nhập Hà Lan vào năm 1810. Người Anh được phép giữ chúng sau năm 1813 để đổi lấy nhiều hòn đảo ở vùng Ca-ri-bê. Mối quan tâm mới được dành cho Úc và những con mắt đế quốc thèm khát hướng về Miến Điện và Afghanistan khi sự mở rộng hơn nữa của sự hiện diện vốn đã lớn của Anh ở châu Á.
Sự hiện diện này thậm chí còn được mở rộng về phía đông tới Trung Quốc và cuối cùng là Nhật Bản. Người Anh không hề mong muốn chinh phục hay khuất phục Đế quốc Trung Quốc rộng lớn, nhưng thông qua một loạt hiệp ước không công bằng cùng với sự hiện diện quân sự hùng mạnh ở Nam Á, họ đã có được chỗ đứng kinh tế hùng mạnh ở Trung Quốc. Họ tự lập ở Hồng Kông nhưng công dân Anh thực sự bị giới hạn ở một số khu vực vì người Trung Quốc lo ngại về ảnh hưởng đáng kể của nước ngoài đối với người dân. Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng của Anh ở mức độ hạn chế. Năm 1849, một nhóm tàu dưới sự chỉ huy của Nam tước Edmund Lyons đã đi vào Vịnh Tokyo, một số tàu được sơn thân màu đen. Tại Tokyo, lúc đó được gọi là Edo, đại diện của Mạc phủ bảo Lyons tiến về Nagasaki, nhưng ông từ chối, yêu cầu quyền thương mại với Nhật Bản theo chủ nghĩa biệt lập. Vì người Nhật đã xa lánh công nghệ hiện đại từ lâu nên những con tàu dưới sự chỉ huy của Lyons có thể gây ra thiệt hại lớn và người Nhật chỉ có thể chấp nhận. Công ước Kanegawa được ký kết vào năm 1850 sau chuyến thăm Nhật Bản lần thứ hai của Lyons cùng với một con tàu lớn hơn và nó trao cho Anh độc quyền thương mại tại một số cảng của Nhật Bản. Trong vài năm nữa, Hiệp ước Hữu nghị Anh-Nhật được Đô đốc Sir James Stirling ký kết và ngay sau đó Pháp, Nga và Hoa Kỳ sẽ theo bước Anh trong việc thiết lập thương mại với Nhật Bản.
Đến những năm 1840, người Pháp đã đến khu vực thuộc địa. Lúc đầu, việc khai thác thuộc địa của họ chỉ giới hạn ở Bắc Phi. Trên thực tế, Địa Trung Hải là một hồ Bonaparte, hoặc ít nhất phần lớn hồ này do các thành viên của gia đình Bonaparte thống trị. Chỉ có Đế quốc Ottoman và Tây Ban Nha là chư hầu không phải của Pháp, mặc dù họ liên minh với Pháp. Sau Hội nghị Síp, người Pháp giành quyền kiểm soát hầu hết Bắc Phi, ngoại trừ Maroc. Ở nước ngoài, họ cũng mở rộng. Chứng kiến sự mở rộng quy mô lớn của Anh ở châu Á, Napoléon II cũng kêu gọi một phần của phương Đông. Năm 1842, chuyến thám hiểm đầu tiên vào Đông Dương được phát động và thiết lập nhiều đồn bốt thương mại và quân sự. Rõ ràng, người Pháp đã lên kế hoạch chiếm khu vực này và những người theo chủ nghĩa biệt lập Nho giáo cai trị khu vực này đã kiên quyết phản đối điều này. Không mất nhiều thời gian để giải quyết vấn đề này bằng một loạt các chiêu dụ, thao túng, ám sát và tấn công và đến những năm 1860, phần lớn Đông Dương nằm dưới sự kiểm soát của Pháp. Cùng lúc đó, người Anh đã tiến từ Ấn Độ. Để đảm bảo một vùng đệm giữa hai cường quốc thuộc địa, Xiêm đã được thành lập một cách hiệu quả để cân bằng lực lượng ở Đông Nam Á.
Năm 1861, Napoléon II thuyết phục nhà vua Tây Ban Nha bán Philippines cho Pháp với mức giá nực cười khoảng một trăm hai mươi triệu franc. Nhưng người Tây Ban Nha vào thời điểm đó đang trải qua một thời kỳ khó khăn và rất cần tiền để duy trì quyền kiểm soát các thuộc địa rắc rối của Mỹ đang dần suy thoái khi các phong trào dân tộc chủ nghĩa nổi lên ở tất cả các thuộc địa. Một phần, điều này là do Brazil độc lập, mặc dù thực sự là một "Bồ Đào Nha lưu vong" đã cử những chàng trai trẻ háo hức đi khuấy động rắc rối giữa các thuộc địa của Tây Ban Nha. Điều này không khó thực hiện vì đại đa số người dân sống ở các thuộc địa của Tây Ban Nha tiếp tục sống trong những điều kiện tồi tệ mang lại lợi ích cho thiểu số giàu có, chủ yếu là các bán đảo. Mặc dù người Tây Ban Nha sẽ giữ quyền kiểm soát các khu vực rộng lớn trong một thập kỷ nữa, nhưng việc kiểm soát ngày càng khó khăn hơn và việc cải thiện còn xa vời. Trên thực tế, ngay tại Tây Ban Nha, ngày càng có nhiều chính trị gia có tư tưởng tiến bộ gây áp lực buộc Tây Ban Nha phải loại bỏ các thuộc địa đó nếu không sẽ phá sản.
Bồ Đào Nha cũng bị khuất phục trước sự cuồng nhiệt của chủ nghĩa đế quốc do người Anh và người Pháp khơi dậy. Năm 1807, khi hoàng gia Bồ Đào Nha thành lập ở Brazil, các thuộc địa của họ ở Châu Phi và Châu Á vẫn trung thành với Joao VI chứ không phải kẻ soán ngôi Bonaparte. Bồ Đào Nha ở châu Âu dưới sự cai trị của Joseph Bonaparte cũng có ý định giành được một số thuộc địa, vì uy tín quốc gia hơn bất cứ điều gì. Người dân miền Nam Lusitanians cũng vậy, một quốc gia nhỏ bé và lạc hậu dưới sự cai trị của Vua Manuel I, cựu thủ tướng Tây Ban Nha Manuel Godoy, tham nhũng và kém hiệu quả. Trên thực tế, thực sự người Bồ Đào Nha đã thực hiện việc đế quốc hóa đầu tiên ở châu Phi sau chiến tranh. Joseph I của Bồ Đào Nha đã gửi một đoàn thám hiểm tới Châu Phi vào năm 1820 và chẳng bao lâu sau, một tiền đồn đã được thành lập trên sông Volta. Vương quốc Nam Lusitania kém thành công hơn và mọi nỗ lực chống lại chủ nghĩa đế quốc của họ đều kết thúc trong thất bại vì thiếu vốn, động lực hoặc vô số vận rủi.
Có lẽ chính sự quan tâm đến châu Phi đã khiến nước Anh bắt đầu quan sát Lục địa đen phía trên mũi phía nam. Cảm nhận được nguồn kinh tế tiềm năng cho đế chế hải ngoại đang phát triển của mình, người Anh đã thành lập một số thuộc địa rải rác ở Tây Phi và Zanzibar vào những năm 1840. Người Pháp nhanh chóng làm theo. Đó là khuôn mẫu của chủ nghĩa đế quốc ở châu Phi vốn được chia đều cho các cường quốc châu Âu trong khoảng thời gian từ những năm 1840 đến những năm 1880. Nhiều cường quốc lục địa cũng có được một phần nhỏ của châu Phi, bao gồm cả các cường quốc thực dân phi truyền thống: Hy Lạp, Naples, thậm chí cả các bang Phổ và Westphalia của Đức. Châu Phi vào đầu thế kỷ này thực sự đã nằm trong tay người châu Âu, chỉ có Ethiopia là vẫn độc lập với bất kỳ quốc gia châu Âu nào. Nhu cầu kinh tế, bao gồm cả nhu cầu ngày càng tăng về nguyên liệu thô và thị trường mới, là yếu tố quyết định trong "cuộc tranh giành châu Phi". Uy tín quốc gia và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc cũng đóng vai trò lớn trong chủ nghĩa đế quốc thế kỷ 19. Các nước nhỏ như Hy Lạp và Naples muốn được thăng cấp thành cường quốc hạng nhất và nghĩ rằng bằng cách giành được các thuộc địa, họ sẽ có thể đạt được điều này. Các nước lớn hơn như Anh, Pháp tham gia vào xu hướng đế quốc vì nhiều lý do không chỉ vì uy tín quốc gia mà còn vì nước kia đang làm và cần phải bắt chước để kiềm chế sức mạnh ngày càng tăng của mỗi nước. Ngoài ra, quan điểm cho rằng người châu Âu đang văn minh hóa các dân tộc thiếu thốn công nghệ ở châu Á và châu Phi - "những kẻ man rợ và man rợ" - đóng một vai trò đạo đức to lớn đối với những kẻ đế quốc. Nói tóm lại, vào năm 1900, thế giới phần lớn do người châu Âu thống trị.
__________________
1840-1860
Những năm từ 1840-1860 là những năm hòa bình và thịnh vượng cho gần như toàn bộ châu Âu. Nước Anh cũng đang bắt đầu phục hồi đáng kể sau thất bại trước Napoléon đầu tiên và nhờ có các thuộc địa của mình, nền kinh tế Anh đã tăng vọt lên trên mức trước chiến tranh. Chiến tranh đã trôi qua được ba mươi năm và những cảm xúc cay đắng đang được trút bỏ bởi một thế hệ trẻ luôn hướng về phía trước chứ không phải lạc hậu. Điều này cũng có thể nói về nước Pháp; khi các cựu chiến binh của các cuộc đại chiến dần qua đi, lý tưởng của họ cũng vậy. Cách mạng 1789 ngày càng xa và một thế hệ người mới bắt đầu nhìn thế giới một cách khác.
Về mặt công nghệ, thế giới đang thay đổi. Ở châu Âu và miền bắc Hoa Kỳ, động cơ hơi nước nhanh chóng trở thành một công cụ hữu ích, thay thế năng lượng truyền thống được sử dụng bởi con người và ngựa. Các tuyến đường sắt bắt đầu chạy khắp Pháp và Đức và kế hoạch cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước do Napoléon II thực hiện cũng bắt đầu có hình thức thực tế. Đường sá, kênh đào, nhà máy đóng tàu, bến cảng hiện đại và các thiết bị khác của thời đại xuất hiện khắp Đế quốc Pháp. Có lẽ một phát minh khác thường hơn đang được xem xét trong thời đại này là khinh khí cầu, xuất hiện lần đầu ở Pháp vào năm 1783. Đã có lúc nó được coi là một phương tiện vận chuyển thực sự chứ không chỉ là một vật dụng kỳ lạ hay quan sát trong quân đội. Một tiến bộ quan trọng khác là việc phát minh ra điện báo, cho phép gửi tin nhắn đi khắp lục địa chỉ trong vài giây. Tuyến Paris-New York được xây dựng vào năm 1845, tuyến New-York-London một năm sau đó và đến năm 1850, tất cả các thành phố lớn của Châu Âu, Hoa Kỳ và Brazil đều được kết nối.
Nước Anh trong thời gian này đã trải qua một số thay đổi lớn. Bao gồm trong số đó là sự mở rộng nhanh chóng ra nước ngoài của họ, được thúc đẩy bởi việc trục xuất họ khỏi lục địa. Trong một thời gian sau thất bại, nền chính trị Anh chuyển sang cực kỳ bảo thủ, tập trung vào chính sách đối ngoại và trả thù. Các thủ tướng như George Canning và Lyndhurst có lập trường rất chống Pháp, đưa ra đề nghị trục xuất quân Pháp trên đất Anh vào mọi thời điểm có thể. Sự lên ngôi của Nữ hoàng Charlotte sau cái chết của người cha suy đồi đã mở ra một thời đại mới của nền chính trị Anh: một thời đại của sự thỏa hiệp và hợp tác hơn là trả thù quân phiệt. Rõ ràng là nhiệm kỳ thứ hai của Lyndhurst đã không hoạt động như được thể hiện trong nhiệm kỳ thứ hai của Lyndhurst, vì không thể thuyết phục được Hoàng đế mới của Pháp rút quân. Do đó, người Anh đã sử dụng các chính sách quân phiệt ở nước ngoài và một trong những chính sách hợp tác ở châu Âu. Điều này được thể hiện rõ trong nhiệm kỳ của Peel khi ông đặt nền móng cho việc nối lại quan hệ Anh-Pháp trong những năm sau đó. Nhưng bất chấp tất cả những cảm giác tốt đẹp này được Nữ hoàng Charlotte và các chính khách cấp tiến hơn mang lại, vẫn còn một ác cảm sâu sắc đối với người Pháp trong lòng công dân Anh bình thường. Có những cuộc biểu tình ở mọi doanh trại Pháp ở London vào mọi ngày kỷ niệm có thể xảy ra: ngày ký kết Hiệp ước Paris, Trận Brest hay Trận Rochester, ngày sinh của George III, v.v. Mỗi năm một bản kiến nghị với vài triệu chữ ký đã được gửi tới Napoléon II nhưng những điều này đã bị bỏ qua cho đến năm 1852. Đó là vào năm này một cuộc biểu tình đã trở nên bạo lực. Quân đội Pháp đã dại dột bắn vào những người Anh đang tuần hành ôn hòa ở London, giết chết bảy người, và trong vòng vài giờ, thành phố sôi sục vì thịnh nộ. Với lệnh nghiêm ngặt không được nổ súng nữa, lính canh tại doanh trại Pháp chỉ có thể chạy trốn vào các tòa nhà an toàn. Có vẻ như họ sẽ bị tràn ngập bởi đám đông giận dữ ở London nhưng chỉ những cái đầu lạnh hơn dưới hình dạng Bá tước Derby và các nhà lãnh đạo quốc hội khác mới ngăn chặn được điều đó. Vụ thảm sát trên đường phố St. Alban, như người ta đã biết, là giọt nước cuối cùng đối với nhiều người. Vị vua mới, George V, đã lớn lên trong một môi trường sợ Pháp và do đó rất căm ghét người Pháp. Ông kêu gọi trục xuất ngay lập tức tất cả binh lính Pháp khỏi đất Anh.
Napoléon II từ lâu đã cố gắng ngăn chặn điều này vì nó sẽ là một sự xấu hổ cho cái tên Napoléon và nước Pháp nói chung. Nhưng nhìn thấy dòng chữ viết trên bức tường, ông đã rút quân Pháp vào cuối năm đó, lần đầu tiên nước Anh thoát khỏi sự chiếm đóng của Pháp sau 40 năm. Thay vì biết ơn, nhiều người Anh không hài lòng với cách mềm mỏng mà Bá tước Derby đã đối xử với người Pháp và năm sau đó đã đưa Lord Palmerston vào nhiệm kỳ thứ hai của ông. Vương quốc Anh đã dao động qua lại giữa xu hướng hòa giải và bài Pháp kể từ khi kết thúc chiến tranh hơn bốn mươi năm trước và nước Anh sẽ tiếp tục như vậy trong tương lai. Tuy nhiên, nước Anh vẫn thịnh vượng và đến năm 1860 lại trở thành mối đe dọa tiềm tàng đối với Pháp.
Trong khi đó, nước Pháp đã trở thành một pháo đài của văn hóa và văn minh. Napoléon II, với tất cả những lời nói và khoa trương của mình, thực sự đã chiếm được Ai Cập trong vài tháng ngắn ngủi và giành lấy Bắc Phi khỏi sự cai trị của Constantinople. Sự nổi tiếng của ông tương đương với cha ông vào năm 1813. Kế hoạch xây dựng một kênh đào nối Địa Trung Hải với Biển Đỏ được thực hiện vào năm 1850 và Canal Majestueux à Est được hoàn thành vào năm 1852, qua đó mở rộng ảnh hưởng của Pháp đến những địa điểm mới. Ấn Độ thuộc Anh có khả năng bị đe dọa và niềm tin lớn lao phải được đặt vào các thuộc địa của Cape Town. Kế hoạch của Napoléon nhằm đạt tới sự giàu có của Ấn Độ bao gồm việc mở rộng sang Ả Rập và Ba Tư. Người Ottoman đã liên minh với người Pháp và vào năm 1855, người Pháp đã thực hiện một loạt hiệp ước với các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập với mục đích thống nhất họ và thống nhất họ với một nhà cai trị thân Pháp tại chỗ.
Nga cũng đã mở rộng trong những năm này và giống như các cường quốc phương Tây, họ đã mở rộng về phía đông. Cái chết của Nicholas I đã đưa Alexander II lên ngai vàng, người mà so với cha mình là người có tư tưởng khá tự do. Theo đó, ông đã "giải phóng" nông nô nước Nga vào năm 1861 dù trên thực tế họ vẫn gắn bó với đất đai như xưa. Nước Nga vẫn rộng lớn, lạc hậu và chuyên quyền. Cách mạng Công nghiệp vẫn chưa bắt đầu, mặc dù Alexander II đã khuyến khích tăng trưởng công nghiệp để phù hợp với phần còn lại của châu Âu. Dưới thời Nicholas, các chính sách đối ngoại của Nga vẫn hướng tới Constantinople và các eo biển một cách tham lam. Alexander II cũng đăm chiêu nhìn về vùng đất đáng thèm muốn, nhưng nhận ra rằng nếu ông muốn chiếm những vùng đất đó từ tay người Ottoman đang sa sút, đất nước của ông sẽ phải sẵn sàng. Trên thực tế, Nga là cường quốc Lục địa duy nhất không chịu ảnh hưởng chặt chẽ của Napoléon II. Nó chính thức là một đồng minh của Pháp như đã nêu trong Hiệp ước Tilsit năm 1807, nhưng họ đã xa cách trong những năm gần đây. Anh quan tâm đến Nga như một đồng minh tiềm năng nếu có bất cứ điều gì xảy ra.
Áo không giáp biển nhưng vẫn tồn tại bất chấp dân số đồng nhất đang đe dọa chia cắt nó. Westphalia, dưới sự hướng dẫn của Jerome I già, người anh em cuối cùng còn sống của Napoléon Đại đế, đã thu hút được các công quốc nhỏ gần đó, từ đó mở rộng quy mô và uy tín của Westphalia. Liên bang Đức hầu như không phải là một liên minh và chỉ đơn thuần là một mốc địa lý, không có gì hơn. Quốc hội của nó không có quyền lực hay sự tôn trọng. Ở Tây Ban Nha, các quốc vương nhất quyết bám trụ các thuộc địa của Mỹ nhưng với chi phí ngày càng tăng. Hàng triệu peso được đổ vào để giữ đất nhưng giá lại quá cao. Tây Ban Nha cần có một sự thay đổi nhưng mãi đến những năm 1880 mới thực hiện được. Ý vẫn là con rối của Pháp và Naples ít nhiều vẫn vậy. Vùng Balkan vẫn nằm dưới sự cai trị chuyên quyền của Đế chế Ottoman hiện được hỗ trợ bởi Napoléon II.
__________________
Chiến tranh Ba Lan-Phổ lần thứ nhất
Phần còn lại của châu Âu đã trải qua một khoảng thời gian khá nhạt nhẽo, ngoại trừ một trường hợp. Phổ và Áo chỉ là những cường quốc hạng hai, nước này hầu như không vượt quá một vương quốc Đức điển hình. Tuy nhiên, trong một trong số ít cuộc chiến diễn ra từ năm 1813 đến năm 1900, Phổ đã phát động một cuộc tấn công vào Vương quốc Ba Lan vào năm 1848 với mục đích chiếm đoạt một số lãnh thổ đã mất. Vua Ba Lan là con trai của vị vua đầu tiên, Joseph I, và được đặt tên phù hợp là Joseph II. Ông mới lên ngôi nhưng đã từng theo học tại Học viện Quân sự ở Paris. Ông đã nhanh chóng đích thân dẫn quân vào trận chiến và trên thực tế đã làm như vậy trong trận chiến đầu tiên, Trận Mlava, diễn ra trên vùng đồng bằng bên ngoài thị trấn biên giới. Quân đội Phổ trì trệ lâu ngày đã giành được chiến thắng sau một loạt cuộc tấn công vô ích của quân kỵ binh Ba Lan dũng cảm. Gần như toàn bộ nhân viên hoàng gia đã phải ngăn cản Vua Joseph lãnh đạo các cuộc tấn công và khi người Ba Lan rút lui, người ta nói rằng Joseph đã đổ lỗi cho sự thất bại là do cá nhân ông thiếu sự tham gia.
Chỉ hai tuần sau, người Ba Lan và người Phổ gặp lại nhau, lần này là tại Modlin. Joseph nhất quyết muốn đích thân dẫn quân nhưng khi làm vậy, anh ta đã rơi vào một phát súng xui xẻo. Lực lượng Ba Lan tan rã mà không cần đến sự lãnh đạo của hoàng gia. Tại thời điểm này, Napoléon II cảm thấy cần phải ra tay để giữ cho nhà nước Ba Lan không bị thất bại hoàn toàn. Ông ta đe dọa sẽ gây chiến với Phổ nếu họ không ngừng thù địch ngay lập tức và Frederick William IV buộc phải dừng cuộc chiến chống lại Ba Lan. Điều này đã tạo ra sự phẫn nộ ở Phổ đối với Bonapartes và người Ba Lan đến mức họ thực sự đã phải nhờ quân đội Phổ quay trở lại để duy trì hòa bình ở Berlin do có quá nhiều cuộc biểu tình chống Pháp. Chiến tranh Phổ-Ba Lan lần thứ nhất đã gieo mầm mống cho sự ô nhục ở Đông Âu.
__________________
Đường đến Nội chiến
Calhoun, van Buren, Polk
Những vùng đất mới rộng lớn giành được nhờ chiến thắng trong Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha thoạt đầu dường như coi thường xung đột nô lệ. Tổng thống Henry Clay rời nhiệm sở với vương miện nguyệt quế, "người đã chiến thắng miền Tây", "cha đẻ của một nửa nước Mỹ". Thay thế ông là John C. Calhoun, với tư cách là phó chủ tịch chính quyền Clay, chịu trách nhiệm về phần lớn sự cải thiện của nước Mỹ sau chiến thắng vĩ đại. Trong cuộc bầu cử năm 1832, John Quincy Adams một lần nữa bị đánh bại và Calhoun lên nắm quyền vào tháng 3 năm 1833. Chiến thắng của ông không dựa trên bất kỳ ý tưởng mới nào và lập trường của ông về chế độ nô lệ chỉ là một khoảng cách xa so với những hành động gần đây của ông trong mang lại vinh quang cho nhà nước mới của Mỹ. Tuy nhiên, với tư cách là một người miền Nam và ủng hộ quyết liệt chế độ nô lệ, nhiều người đã sớm cảnh giác khi Tổng thống Calhoun bắt đầu thúc ép việc cho phép chế độ nô lệ ở tất cả các vùng lãnh thổ mới.
Vào thời điểm đó, những vùng đất rộng lớn ở phía tây là nơi sinh sống của rất ít người định cư và phần lớn dân số là người Mỹ bản địa. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, những lời hứa hẹn về sự trù phú của những khu rừng nguyên sinh và đất đai tươi tốt mới đã thu hút những người định cư từ khắp nơi trên thế giới. Ở châu Âu, những người bị áp bức như người Ireland và thậm chí một số thành viên bất mãn của chế độ cũ đã thực hiện cuộc hành trình đến miền Tây nước Mỹ, nơi họ gặp phải một cảnh tượng không thể so sánh được. Những người từ Tây Âu đã thực hiện chuyến đi xuyên Đại Tây Dương bắt đầu từ cuối những năm 1820 và đến những năm 1830; đó là một dòng người đầy đủ. Trong khi đó, các chính khách ngày càng lo ngại về lượng người đổ vào nhanh chóng. Sẽ không sai khi nói rằng những năm 1830 chứng kiến sự gia tăng tràn lan của nạn phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ. Các vùng đất mới được chia thành các lãnh thổ và khi mỗi lãnh thổ có dân số đủ lớn và có hiến pháp riêng, họ có thể nộp đơn xin trở thành tiểu bang. Số lượng các bang tăng lên đáng kể từ năm 1830 đến năm 1860 khi ngày càng có nhiều người đi về phía tây.
Một trong những vùng lãnh thổ đặc biệt này là Lãnh thổ Da đỏ, được chỉ định bởi một đạo luật năm 1835 của Quốc hội nhằm dành một lượng lớn đất đai ở phần trung nam của đất nước, giữa các con sông Red, Sabine và Rio Grande, cho tất cả người da đỏ ở phía đông. của sông Mississippi sẽ được chuyển đến đó vào năm 1837. Chính sách này ít nhiều đã nhận được sự tán thưởng toàn dân vì hầu hết người Mỹ coi việc thống trị suốt con đường đến Thái Bình Dương là định mệnh của họ; người bản xứ chỉ đang cản đường. Việc buộc phải loại bỏ người Mỹ bản địa đã gây ra sự phản đối kịch liệt giữa họ nhưng Quân đội Hoa Kỳ đã thực thi việc loại bỏ và phần lớn người da đỏ bất lực. Dọc theo một số "Đường mòn nước mắt", hàng ngàn người da đỏ đã di chuyển về phía tây, rời xa quê hương nguyên thủy của họ.
Nhưng cùng với toàn bộ lãnh thổ mới này đã nảy sinh tranh cãi về chế độ nô lệ. Các quốc gia mới nên được thừa nhận là quốc gia tự do hay nô lệ? Họ có nên lựa chọn cho mình? Đối với các chính trị gia ủng hộ chế độ nô lệ, dường như cần phải có số lượng bang nô lệ và bang tự do bằng nhau, nếu không Thượng viện (với hai thượng nghị sĩ từ mỗi bang) với đa số tự do sẽ lật đổ chế độ nô lệ. Tất cả các bang miền Bắc đã bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1804 và ngay cả Pháp lệnh Tây Bắc năm 1787 cũng tuyên bố chế độ nô lệ là bất hợp pháp trên sông Ohio. Một thỏa hiệp đã được thực hiện vào năm 1820: một quốc gia nô lệ sẽ chỉ được thừa nhận nếu một quốc gia tự do cũng được thừa nhận. Điều này được gọi là Thỏa hiệp Missouri sau khi Missouri và Maine lần lượt trở thành nô lệ và tự do. Sau năm 1827, Thỏa hiệp Missouri được đưa lên quy mô lớn hơn nhiều.
Việc Martin van Buren đắc cử trong cuộc bầu cử năm 1840 đã mở ra một kỷ nguyên mới. Anh ta chạy mà không bị phản đối. Tuy nhiên đến năm 1844, ông không muốn tranh cử và ngay sau khi rời Nhà Trắng, ông qua đời. Sự thăng tiến không bị phản đối của cựu phó tổng thống của ông, James Polk, là sự tiếp nối các chính sách của Calhoun và chính khách Jackson, mặc dù Polk đã thêm sự tinh tế theo chủ nghĩa bành trướng của riêng mình vào bộ mặt của chính quyền. Không có cuộc bầu cử nào bị phản đối kể từ năm 1832 và Quốc hội Hoa Kỳ chủ yếu bao gồm các nghị sĩ và thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ. Năm 1848, viện cớ sức khỏe yếu, James Polk quyết định không tái tranh cử. Sau bốn năm làm việc vất vả, ông đã sẵn sàng nghỉ hưu. Các chính quyền này đã thành công trong việc tránh xa mối đe dọa tiềm ẩn mà chế độ nô lệ có thể gây ra. Tuy nhiên đến những năm 1850, vấn đề này không còn có thể bị bỏ qua nữa. Ngay cả trước đó vấn đề nô lệ ngày càng gia tăng đã rõ ràng. Vào những năm 1830, Anh đã bãi bỏ chế độ nô lệ một lần và mãi mãi và vài năm sau, Napoléon II cũng làm theo, mặc dù cho phép "nô lệ kéo dài" tại các tài sản ở nước ngoài.
Columbia, 1848, Cass
Vấn đề nảy sinh vào cuối nhiệm kỳ của Polk với việc Lãnh thổ Columbia sắp được kết nạp vào Liên minh. Ở đó, cơ quan lập pháp vùng lãnh thổ đã bỏ phiếu sau một cuộc tranh luận kéo dài và gian khổ để thừa nhận Columbia là một bang tự do. Tuy nhiên, không có bang nô lệ tương ứng nào được thừa nhận cùng lúc, như tiền lệ mà Thỏa hiệp Missouri yêu cầu. Vấn đề chưa bao giờ nảy sinh trước đây vì tất cả các lần tiếp nhận trước đó đều diễn ra theo cặp: trạng thái tự do hoặc nô lệ sẽ được thừa nhận theo sau là trạng thái kia. Do đó, một cuộc tranh luận quốc gia đã nổ ra về cuộc tranh cãi về Lãnh thổ Columbia. Một số người lập luận rằng nên đợi cho đến khi một lãnh thổ nô lệ sẵn sàng trở thành tiểu bang, những người khác nói rằng hãy để nó gia nhập Liên minh. Những người ủng hộ nô lệ phản đối kịch liệt phương án thứ hai vì sợ rằng họ sẽ bị loại tại Thượng viện. Cuộc tranh cãi là chủ đề chính của cuộc bầu cử năm 1848 gây ra sự chia rẽ trong Đảng Dân chủ, đảng thực sự là đảng duy nhất còn sót lại trong nước. Những người ủng hộ phương án "chờ đợi" đã theo Đảng Dân chủ và đề cử Franklin Pierce, một người tin rằng thỏa thuận và thỏa hiệp là tốt nhất. Chi nhánh của Đảng Dân chủ tự thành lập với tên gọi Đảng Tự do và đề cử Lewis Cass, một người tin tưởng vào Chủ quyền Nhân dân, làm ứng cử viên của họ. Đó là một cuộc đua gay cấn kéo dài cho đến Ngày bầu cử. Sẽ còn bốn tuần nữa người chiến thắng mới được công bố, điều này cho thấy cuộc bầu cử đã đến gần đến mức nào. Lewis Cass đã giành được đủ số phiếu đại cử tri và trở thành tổng thống thứ 10 của Hoa Kỳ.
Chính quyền Cass ngay lập tức bắt đầu thừa nhận Columbia là một tiểu bang, mặc dù Quốc hội do Đảng Dân chủ thống trị sẽ không lắng nghe điều đó. Năm 1850, nó được đưa lên Tòa án Tối cao và trong vụ Cass kiện Quốc hội Hoa Kỳ, ý tưởng về Chủ quyền Nhân dân được coi là hiến pháp. Columbia, miễn là người dân trên lãnh thổ đó thấy phù hợp, có thể được thừa nhận là một tiểu bang bất kể có tiểu bang nô lệ tương ứng hay không. Những người chủ nô và những người ủng hộ họ đã nổi giận và đe dọa ly khai nhưng những cái đầu lạnh hơn đã thắng thế. Tổng thống Cass hứa rằng lãnh thổ duy nhất đáp ứng các yêu cầu trở thành tiểu bang, Lãnh thổ Da Đỏ, có thể được thừa nhận là một quốc gia có chế độ nô lệ. Khủng hoảng đã được ngăn chặn trong thời gian đó, gần như gây thiệt hại cho những người da đỏ bị buộc phải di chuyển đến vùng đất này và giờ đây họ bị áp đặt chế độ nô lệ. May mắn thay, vấn đề này đã được tạm dừng. Thật không may, Thỏa hiệp Missouri đã bị xé nát và Đạo luật về chủ quyền nhân dân năm 1851 đã đưa quyết định của Tòa án tối cao vào thực thi. Phải đến năm 1857 và khả năng Lãnh thổ Platte được thừa nhận là một tiểu bang thì cuộc tranh cãi mới bắt đầu xuất hiện.
Douglas, Platte
Cuộc bầu cử năm 1852 đã mang lại sự thỏa hiệp và ổn định cho chính quyền của Tổng thống Cass, nhưng cuộc bầu cử năm 1856 lại đem lại sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Charles Sumner, một người trẻ tuổi và từng là thượng nghị sĩ bang New Hampshire, đã đứng ra tranh cử với ứng cử viên của Đảng Tự do. Mặc dù Sumner suýt thắng nhờ vào sự phản đối chế độ nô lệ của mình, nhưng Stephen A. Douglas, một thành viên Đảng Dân chủ ít cấp tiến hơn, đã giành chiến thắng và trở thành tổng thống.
Chính thái độ của Tổng thống Douglas về chế độ nô lệ đã gây ra sự phẫn nộ từ phía người ủng hộ chế độ nô lệ. Tuy nhiên, cuộc đua tranh cử này đã tạo điều kiện cho sự gia tăng của các nhóm chống chế độ nô lệ, đặc biệt là sau khi cuốn tiểu thuyết "Ngôi nhà gỗ của Bác Joe" của Harriet Beecher Stowe lan truyền. Cuốn sách này đã làm kinh hoàng nhiều người ở miền Bắc và kích thích sự tăng cường của các nhóm chống chế độ nô lệ.
Vấn đề của Lãnh thổ Platte vào năm 1857 đã gây ra nhiều xung đột và căng thẳng, dẫn đến sự phân ly và Nội chiến sau này. Với số lượng bang nô lệ và bang tự do bằng nhau, việc xác định tình trạng của Platte khi nộp đơn xin trở thành bang đã gây ra tranh cãi nảy lửa. Các cuộc xung đột ác liệt giữa hai phe ủng hộ và phản đối chế độ nô lệ đã khiến Platte trở thành một chiến trường đẫm máu, được biết đến với cái tên "Prickly Platte".
Tổng thống Douglas, đương nhiệm trong thời gian này, đã cố gắng tìm kiếm giải pháp cho vấn đề, nhưng đối mặt với sự phản đối và chỉ trích từ cả hai phe. Ông đã cân nhắc nhiều phương án khác nhau, bao gồm việc hủy bỏ Đạo luật về chủ quyền nhân dân và khôi phục Thỏa hiệp Missouri, nhưng không có một giải pháp nào được chấp nhận rộng rãi. Ông cũng đã đề xuất biến chế độ nô lệ thành một quyền hiến định, nhưng ý kiến công chúng chống lại ý tưởng này.
Cuộc tranh cãi về Platte và chế độ nô lệ đã khiến Douglas trở nên kiệt sức trong nhiệm kỳ tổng thống của mình và gặp phải nhiều lời chỉ trích từ mọi phía. Khi ông không được Đảng Dân chủ tái bầu, ông chuyển giao quyền lực cho đối thủ của mình, John C. Breckinridge, và ông cảm thấy thoải mái rời bỏ chính trường. Tuy nhiên, những đám mây xung đột đã bắt đầu hình thành, dẫn đến cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Cuộc bầu cử năm 1860 diễn ra với một tinh thần sôi nổi và căng thẳng, vượt xa so với cuộc đua năm 1848. Trong vòng một tuần sau ngày bầu cử, kết quả đã rõ ràng: Abraham Lincoln trở thành tổng thống mới của Hoa Kỳ. Tình hình Lãnh thổ Platte đẫm máu là một vấn đề nóng bỏng, và quan điểm của Lincoln về việc tiếp tục theo đuổi Chủ quyền Nhân dân đã thu hút sự ủng hộ từ nhiều cử tri.
Thái độ kiên quyết chống lại chế độ nô lệ của Lincoln đã được biểu hiện rõ trong diễn văn nhậm chức của ông. Lincoln hứa rằng ông sẽ không can thiệp vào tổ chức cung cấp số tiền đáng kể cho các bang miền Nam, mặc dù ông không đề cập trực tiếp đến chế độ nô lệ. Điều này gây ra sự phẫn nộ từ miền Nam, nhưng những nhà lãnh đạo miền Nam quyết định không thực hiện bất kỳ biện pháp quyết liệt nào trừ khi bị kích thích.
Sau khi Abraham Lincoln trở thành tổng thống thứ mười ba của Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 3 năm 1861, miền Nam trở nên phẫn nộ vì John C. Breckenridge đã thua cuộc bầu cử, khiến họ cảm thấy bị bỏ lại. Ở một số quận, tên Charles Sumner thậm chí không xuất hiện trên lá phiếu. Tuy nhiên, các chính trị gia miền Nam đã quyết định đợi xem liệu Sumner có ảnh hưởng gì sau bài phát biểu theo chủ nghĩa bãi nô của mình hay không.
Trong Diễn văn nhậm chức của mình, Sumner hứa sẽ "không bao giờ động đến tổ chức cung cấp số tiền đáng kể như vậy cho các bang miền Nam". Tuy nhiên, ý nghĩa cụ thể của lời hứa này vẫn là một dấu hỏi, và có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như hệ thống đồn điền. Mặc dù tức giận, các nhà lãnh đạo miền Nam quyết định không thực hiện bất kỳ biện pháp quyết liệt nào trừ khi bị khiêu khích.
Tuy nhiên, căng thẳng giữa các miền không hề giảm bớt, và cuối cùng nó đã dẫn đến sự bùng nổ của Nội chiến Hoa Kỳ.